Vợ ngoại tình chồng ly hôn đơn phương có được không?
- Thứ bảy - 05/05/2018 10:51
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Xin chào luật sư, tôi có vấn đề cần được các luật sư tư vấn:
Luật sư cho tôi hỏi là vợ tôi ngoại tình nhưng tôi chỉ có bằng chứng là tin nhắn, như vậy tôi muốn làm đơn xin ly hôn 1 bên được không ạ? Tin nhắn tôi có là bằng chứng được không ạ? Tôi xin cảm ơn luật sư.
Trả lời:
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tới ban luật sư chúng tôi. Vấn đề của bạn, chúng tôi xin được tư vấn như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tóa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
2. Luật sư tư vấn:
Về căn cứ ly hôn đơn phương:
Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:
Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Khi có một trong các căn cứ như vợ - chồng có hành vi ngoại tình hoặc vợ, chồng vi phạm nghiêm tọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng như quy định trên thì bạn hoàn toàn có thể ly hôn đơn phương. Về yếu tố vi phạm nghiêm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP có hướng dân, bạn có thể tham khảo như sau:
a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;
Theo hướng dân trên, ngoại tình cũng là một trong những hành vi dẫn đến tình trạng hôn nhân lâm vào trầm trọng. Để có thể giải quyết ly hôn, bạn cần thu thập các bằng chứng, chứng minh cho hành vi ngoại tình của vợ bạn để làm căn cứ giải quyết.
Liệu tin nhắn có phải là bằng chứng ngoại tình của vợ?
Điều 93, Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về chứng cứ như sau:
Điều 93. Chứng cứ
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.
Điều 95. Xác định chứng cứ
1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
...
5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
Đối chiếu với các quy định trên, việc lấy được tin nhắn của vợ bạn là chưa đủ,nhân tình của vợ bạn hoàn toàn có thể lật lọng nói răng đó không phải là số điện thoại của anh ta mà của một người nào đó. Và quan trọng, tin nhắn để là chứng cứ nếu bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Nhưng những tin nhắn mà bạn cung cấp lại đang thiếu đi sự xác nhận của cơ quan có thẩm quyền nên về bản chất, những tin nhắn đó chỉ được coi như là nguồn của chứng cứ theo quy định tại Điều 94:
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
...
Do vậy, để có thể giải quyết ly hôn đơn phương, việc chỉ căn cứ vào các đoạn tin nhắn giữa vợ bạn và nhân tình là chưa đủ, bạn cần thu thập thêm các chứng cứ như đoạn ghi âm lời thú nhận của vợ bạn hoặc các đoạn clip,.. thì có lẽ Tòa án mới có đủ căn cứ để giải quyết ly hôn cho bạn.
Luật sư cho tôi hỏi là vợ tôi ngoại tình nhưng tôi chỉ có bằng chứng là tin nhắn, như vậy tôi muốn làm đơn xin ly hôn 1 bên được không ạ? Tin nhắn tôi có là bằng chứng được không ạ? Tôi xin cảm ơn luật sư.
Trả lời:
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tới ban luật sư chúng tôi. Vấn đề của bạn, chúng tôi xin được tư vấn như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tóa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
2. Luật sư tư vấn:
Về căn cứ ly hôn đơn phương:
Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:
Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Khi có một trong các căn cứ như vợ - chồng có hành vi ngoại tình hoặc vợ, chồng vi phạm nghiêm tọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng như quy định trên thì bạn hoàn toàn có thể ly hôn đơn phương. Về yếu tố vi phạm nghiêm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP có hướng dân, bạn có thể tham khảo như sau:
a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;
Theo hướng dân trên, ngoại tình cũng là một trong những hành vi dẫn đến tình trạng hôn nhân lâm vào trầm trọng. Để có thể giải quyết ly hôn, bạn cần thu thập các bằng chứng, chứng minh cho hành vi ngoại tình của vợ bạn để làm căn cứ giải quyết.
Liệu tin nhắn có phải là bằng chứng ngoại tình của vợ?
Điều 93, Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về chứng cứ như sau:
Điều 93. Chứng cứ
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.
Điều 95. Xác định chứng cứ
1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
...
5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
Đối chiếu với các quy định trên, việc lấy được tin nhắn của vợ bạn là chưa đủ,nhân tình của vợ bạn hoàn toàn có thể lật lọng nói răng đó không phải là số điện thoại của anh ta mà của một người nào đó. Và quan trọng, tin nhắn để là chứng cứ nếu bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Nhưng những tin nhắn mà bạn cung cấp lại đang thiếu đi sự xác nhận của cơ quan có thẩm quyền nên về bản chất, những tin nhắn đó chỉ được coi như là nguồn của chứng cứ theo quy định tại Điều 94:
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
...
Do vậy, để có thể giải quyết ly hôn đơn phương, việc chỉ căn cứ vào các đoạn tin nhắn giữa vợ bạn và nhân tình là chưa đủ, bạn cần thu thập thêm các chứng cứ như đoạn ghi âm lời thú nhận của vợ bạn hoặc các đoạn clip,.. thì có lẽ Tòa án mới có đủ căn cứ để giải quyết ly hôn cho bạn.
Sưu tầm